Price: Free
Phone: 0
Time to visit a place: 60 phút
Open Time: 5:00 AM - Close Time: 6:00 PM
Email: xtdulichsoctrang@gmail.com
Address: Ấp Đền Thờ, Xã An Thạnh 1, Huyện Cù Lao Dung, Tỉnh Sóc Trăng
Nhiều người biết đến Cù Lao Dung với ấn tượng sâu sắc về vùng đất anh hùng, giàu truyền thống cách mạng, về những con người có tinh thần yêu nước nồng nàn, anh dũng, kiên cường, mưu trí trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất và rất hiền hòa, chân thật, mến khách trong cuộc sống thường ngày. Đặc biệt, tại mảnh đất cù lao xa xôi, hẻo lánh này, một công trình có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng đã được người dân nơi đây dựng lên với tấm lòng thành kính, trân trọng, với quyết tâm sắt đá, bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù. Đó chính là Đền thờ Bác Hồ, một trong tám di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia của tỉnh Sóc Trăng, tọa lạc tại ấp Đền Thờ, xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung.
Trước đây, Đền thờ Bác Hồ nằm trên một mảnh đất bồi được san lắp bằng phẳng, có diện tích 6.678m2, tọa lạc ở xóm 6, ấp Nguyễn Công Minh, xã An Thạnh Nhì, huyện Long Phú (từ năm 2002, huyện Long Phú được tách ra thành lập huyện Cù Lao Dung gồm các xã trên Cù Lao Dung, huyện Long Phú gồm các xã trên đất liền). Phía Bắc và Đông Bắc giáp với tỉnh Trà Vinh (cách con sông Định An), phía Nam và Đông giáp xã Đại Ân 1, phía Tây và Tây Bắc giáp chợ Bến Bạ (cách con sông Bến Bạ).
Từ Trung tâm huyện Cù Lao Dung đến Đền thờ Bác cách khoảng 5km, chỉ mất vài phút đi bằng xe hai bánh hoặc ô tô theo con đường trải nhựa, mới xây dựng cách đây khoảng 5 năm, nằm trong chương trình Đường ô tô đến trung tâm xã của Chính phủ. Từ thành phố Sóc Trăng đến Đền thờ Bác, du khách có thể đi theo hướng tỉnh lộ 933, khoảng 21km là đến bến phà Long Phú - Cù Lao Dung, qua phà đi khoảng 8km đường nhựa là tới nơi. Còn hướng từ Cần Thơ, Kế Sách du khách có thể qua phà Đại Ngãi - Cù Lao Dung, tỉnh Trà Vinh thì qua phà Cầu Quan - Cù Lao Dung sau đó theo tỉnh lộ 933b khoảng 12km, rẽ trái đi khoảng 4km là đến Đền thờ Bác. Đây là hai tuyến đường chính đến Đền thờ Bác thuận tiện nhất từ hướng Sóc Trăng và Cần Thơ.
Xã An Thạnh Đông nằm trọn vẹn trên một cù lao riêng, được gọi là Cồn Cọc, nằm cặp theo sông Hậu, phía Đông giáp tỉnh Trà Vinh, cách trung tâm huyện và các xã An Thạnh Tây, An Thạnh Nhì bởi con sông Bến Bạ. Kinh tế nơi đây chủ yếu là phát triển nông nghiệp, với nghề trồng mía, hoa màu, trái cây và nuôi trồng thủy sản. Người dân ở An Thạnh Đông rất anh dũng, kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất và rất hiền hòa, chân thật, mến khách trong cuộc sống thường ngày. Ấp Đền Thờ nằm trong khu vực trung tâm của xã. Đền thờ Bác Hồ nằm đối diện với Ủy ban Nhân dân xã, cách nhau một con rạch nhỏ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân các xã thuộc huyện Cù Lao Dung ngày nay nói chung và xã An Thạnh Nhì nói riêng, đã chịu biết bao gian lao cực khổ, đóng góp nhiều công sức, xương máu của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần giành thắng lợi cuối cùng. Trong kháng chiến chống Pháp, có thời điểm xã An Thạnh Nhì là căn cứ địa của Tỉnh ủy, của Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Sóc Trăng, người dân Cù Lao Dung từng nuôi chứa đùm bọc cho biết bao cán bộ, chiến sỹ cách mạng ở những thời điểm khó khăn, ác liệt nhất.
Đến kháng chiến chống Mỹ, xã An Thạnh Nhì cũng là vùng căn cứ của Tỉnh ủy trong những năm đầu cách mạng và là căn cứ của Huyện ủy Long Phú trong suốt 21 năm. Từ những ngày đồng khởi 1960, An Thạnh Nhì đã vùng lên diệt tề điệp, phá bỏ kềm kẹp, giải phóng ấp, xã. Đến thời kỳ Mỹ - Ngụy mở chiến dịch bình định, lấn chiếm, nhân dân cùng du kích trong xã nổi dậy bao vây, bứt rút đồn giặc, tổ chức nhiều trận chống càn, chống đánh phá của địch, nhiều cuộc đấu tranh chính trị trực diện với quân thù chống càn quét khủng bố, chống thảm sát, đòi quyền dân sinh, dân chủ để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng. Với lòng son sắc, luôn trung thành với cách mạng, kiên trì đấu tranh, cho đến những tháng cuối năm 1974, nhân dân Cù Lao Dung đã phá bỏ những đồn giặc, đánh đuổi những tên giặc cuối cùng để giải phóng hoàn toàn các xã vùng cù lao, đem lại sự bình yên cho nhân dân trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang hồi ác liệt, khó khăn thì một tin buồn to tát ập tới: Bác Hồ lâm bệnh và qua đời. Đây là nỗi đau to lớn không sao tả xiết của nhân dân cả nước nói chung và của quân, dân vùng sông nước cù lao nói riêng. Huyện ủy, Ủy ban Mặt trận Giải phóng Dân tộc huyện Long Phú, dân quân xã An Thạnh Nhì cùng hàng ngàn đồng bào, chiến sĩ vùng sông nước cù lao đã tổ chức Lễ truy điệu để chịu tang Người.
Tại buổi lễ, lãnh đạo Huyện ủy Long Phú đã đọc bài điếu văn nói về công ơn to lớn của Bác Hồ đối với đất nước và nhân dân, đồng thời kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hãy đoàn kết để biến nỗi đau thương mất mát thành hành động cách mạng cụ thể. Sau lời tuyên thệ và quyết tâm của Huyện ủy, đã có hàng trăm ý kiến của chiến sỹ và nhân dân yêu cầu được dựng lên một Đền thờ trên vùng đất Cù Lao Dung để ngày đêm tưởng nhớ và phụng thờ Bác.
Trước nguyện vọng, yêu cầu vô cùng thiết tha và chính đáng đó, Huyện ủy Long Phú đã thỉnh thị, xin ý kiến và được Tỉnh ủy đồng ý, ủng hộ. Vì thế, vài ngày sau, Huyện ủy đã tổ chức cuộc họp Ban Chấp hành mở rộng để thông báo ý kiến chỉ đạo của Tỉnh ủy về việc chấp thuận cho xây dựng Đền thờ Bác và bàn kế hoạch đối phó với âm mưu của quân địch.
Theo nhận định, địch sẽ lợi dụng lúc Đảng, quân và dân ta đang đau buồn về sự ra đi đột ngột của vị cha già dân tộc, chúng sẽ ra sức đánh phá ác liệt hơn, hòng làm giảm sút ý chí chiến đấu của ta. Tại cuộc họp, Huyện ủy nhấn mạnh “Việc thành lập Đền thờ Bác Hồ là một việc làm có ý nghĩa thiêng liêng, nó phù hợp với tập tục và nền đạo lý Việt Nam”. Điều đó nói lên tấm lòng thương yêu, tôn kính của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Long Phú, cù lao nói riêng đối với công ơn trời biển của Bác Hồ. Điều quan trọng là lập Đền thờ đã khó, nhưng việc giữ gìn, bảo vệ được Đền thờ là việc khó hơn rất nhiều, đòi hỏi phải có tinh thần dũng cảm, ý chí quật cường cộng với sự bình tĩnh, khéo léo, mưu trí và sáng tạo trong đấu tranh với địch.
Sau thời gian bàn bạc, thảo luận, cuối cùng hội nghị đã thống nhất giao cho xã An Thạnh Nhì lên kế hoạch, tổ chức vận động, quyên góp tiền bạc, vật liệu, phương tiện, huy động lực lượng để tiến hành khởi công xây dựng Đền thờ Bác. Thời gian hoàn thành là vào dịp sinh nhật Bác năm sau (tức ngày 19/5/1970). Đồng thời có kế hoạch thực hiện tốt công tác dân vận, công tác tổ chức cho quần chúng phối hợp với du kích xã, ấp trong việc đấu tranh chính trị và vũ trang để giữ gìn, bảo vệ Đền thờ Bác.
Sau khi dự họp Huyện ủy mở rộng trở về, xã An Thạnh Nhì đã tổ chức cuộc họp bàn chi tiết về việc xây dựng Đền thờ Bác Hồ, với sự tham gia đầy đủ của các tổ chức Đảng, Mặt trận, Dân vận, đoàn thể và nhân dân trong xã. Nội dung cuộc họp xoay quanh các vấn đề chính: địa điểm xây dựng, mô hình, kích thước, vật liệu xây dựng. Về địa điểm, đa số thống nhất chọn Xóm 6, ấp Nguyễn Công Minh làm điểm dựng Đền thờ, vì đây là trung tâm của xã, có địa hình phức tạp, giặc khó đánh phá. Về mô hình, thì thống nhất xây dựng theo kiểu các đền, miếu trong dân gian Nam bộ, tức một gian hai chái bát dần. Về vật liệu, đa số đại biểu cho rằng, do hoàn cảnh chiến tranh, phương tiện đi lại, vận chuyển khó khăn, vật chất eo hẹp, nên tạm thời xây dựng bằng vật liệu tre lá, loại vật liệu có sẵn ở địa phương, chủ yếu là có nơi đàng hoàng để thờ cúng Bác, sau này có điều kiện hoặc khi kháng chiến thành công, đất nước thống nhất, độc lập thì sẽ xây dựng kiên cố và to, đẹp hơn. Còn về kích thước, tùy vào sự vận động, quyên góp tiền bạc, vật liệu trong nhân dân mà quyết định.
Sau đó, xã tiếp tục tổ chức thêm một cuộc họp để thành lập Ban Vận động xây dựng Đền thờ Bác. Các đại biểu đã thống nhất đề cử đồng chí Trần Minh Dẫn, Xã ủy viên là Trưởng Ban, đồng chí Nguyễn Huy Hoàng, Chi bộ ấp làm Phó Ban. Các thành viên phụ trách việc xây dựng (thợ mộc), hậu cần, quyên góp, vận chuyển tập trung vật liệu để thi công gồm các ông: Phùng Văn Lợi, Trần Văn Hậu, Phạm Ngọc Nâu, Huỳnh Hữu Lộc, Lý Văn Thông, Hồng Văn Hiệp,... Trong nhóm những thợ mộc cũng đã tự vẽ ra bản lập - lăng (bản thiết kế đơn giản), đưa ra cho nhiều người góp ý, rồi thông qua lãnh đạo xã huyện, sau khi thống nhất ý kiến mới chọn ngày tiến hành khởi công xây dựng.
Công việc vận động kinh phí, vật liệu và chuẩn bị kéo dài khoảng 4 tháng, đến dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng ngày 03 tháng 02 năm 1970, mới chính thức thi công xây dựng Đền thờ Bác.
Vào thời điểm này, địch tăng cường tổ chức nhiều đợt càn quét, bắn phá ác liệt. Nhằm để phân tán lực lượng, làm giảm mức độ các cuộc càn quét của địch và làm giảm bớt trở ngại, khó khăn cho việc xây dựng Đền thờ Bác, vào những ngày đầu thi công xây dựng, Huyện đội Long Phú đã tập trung huy động du kích các xã cù lao về phối hợp với một bộ phận địa phương quân của huyện xuống bao vây Phân chi khu Rạch Tráng. Tuy nhiên, do địch điều nhiều máy bay, tàu chiến liên tục bắn phá nên các anh em thợ trong Ban Xây dựng phải làm việc vào buổi chiều và ban đêm. Dù vậy, với tinh thần quyết tâm, ý chí mạnh mẽ là phải xây dựng hoàn thành Đền thờ Bác tại đây, nên anh em thợ đã làm việc với tinh thần tích cực, nhiệt tình, khẩn trương không ngại nguy hiểm, gian khổ. Có những lần máy bay địch đến ném bom, anh em phải chui xuống hầm ẩn nấp, khi máy bay địch vừa rút, anh em dưới hầm vội vã chui lên, cứ để mình mẩy bùn sình mà làm việc tiếp.
Ngay trong thời điểm thi công, bà con đã phát hiện ra một căn nhà bỏ hoang của một tên địa chủ trốn chạy ra vùng địch kiểm soát, nóc nhà và vách tuy hư mục nhưng cây gỗ vẫn còn sử dụng được một ít. Ta đã lấy được một số cột, kèo còn tốt, tổ chức chuyên chở về dùng để làm cột, kèo cho Đền thờ.
Do phải đi vận động, quyên góp nên vật liệu không thể tập trung về địa điểm xây dựng cùng lúc và đầy đủ được nên anh em đã bàn bạc, thống nhất tiến hành giải pháp có phần nào làm trước phần đó, không tập trung đông người, tranh thủ làm vào ban đêm để tránh bom, pháo của kẻ thù. Khi phần khung sườn của ngôi đền được dựng lên, cây lá được bà con chở đến từ từ, tràm, tra, đước được thanh niên đốn, đẽo, gọt sẵn chở đến; lá dừa nước thì được chị em phụ nữ tự đốn, chằm sẵn ở nhà rồi chở đến,...
Cứ thế, với tấm lòng kính yêu Bác Hồ vô hạn, quân và dân xã An Thạnh Nhì đã không quản ngại ngày đêm, gian lao, cực khổ, bất chấp mọi hiểm nguy do bom đạn của kẻ thù, cố sao cho ngôi đền được hoàn thành đúng như kế hoạch quyết tâm lúc ban đầu vào dịp mừng sinh nhật Người 19/5/1970.
Và thế là, sau gần 3 tháng thi công dưới mưa bom, bão đạn của quân thù, ngôi đền đã được xây dựng hoàn thành sớm hơn thời gian dự kiến. Anh em tiếp tục bắt tay vào việc san lắp, nâng cao phần nền cho được bằng phẳng, cao ráo. Kế đến là việc đóng lan can xung quanh và trang trí bên trong ngôi đền. Đây là công việc tương đối phức tạp vì cần phải có sự khéo léo của người thợ trong việc đóng bàn thờ, viết câu liễn (câu đối), khẩu hiệu,... Tuy nhiên với sự tận tình, tâm huyết của tất cả mọi người, phần trang trí bên trong ngôi đền đã hoàn thành, tuy đơn sơ nhưng rất trang trọng.
Lúc bấy giờ, một tình huống khó khăn nữa lại xuất hiện: không có ảnh Bác Hồ để thờ. Lúc đầu, anh em bàn bạc với nhau đi tìm người vẽ chân dung Bác nhưng điều này hơi khó, vì giữa cù lao sông nước mênh mông, cách trở đất liền, phương tiện đi lại khó khăn, trong lúc quân địch lại liên tục càn quét, bắn phá thì việc tìm ra được một người có thể vẽ chân dung Bác thì thật là... không dễ dàng chút nào!
May thay, lúc đó bà con đã tìm được ảnh của Bác in trên tờ báo Chiến đấu của tỉnh, bà con cắt ra cho vào khung thấy vẫn đẹp, dù kích thước hơi nhỏ một chút. Thế là mọi khó khăn trở ngại đã được giải quyết ổn thỏa, ngôi Đền thờ Bác Hồ đã hoàn thành theo ý nguyện của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân xã An Thạnh Nhì và bà con vùng sông nước cù lao. Lúc này, mọi người càng thấm thía hơn lời dạy của Bác: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 1970, tại xóm 6, ấp Nguyễn Công Minh, xã An Thạnh Nhì, hàng ngàn người bao gồm cán bộ tỉnh, huyện, xã và bà con 3 xã cù lao đã tụ họp về để dự lễ khánh thành Đền thờ Bác Hồ, bất chấp mọi nguy hiểm do bom đạn của kẻ thù có thể trút xuống bất kỳ lúc nào. Ngôi đền đã hoàn thành với sự tận tụy, quyết tâm của Đảng, quân và dân xã An Thạnh Nhì, mà đứng đầu là đồng chí Nguyễn Thanh Nhã, Bí thư Xã ủy cùng với Ban Vận động xây dựng và sự tích cực đóng góp vật chất, công sức của nhân dân ấp Nguyễn Công Minh, của các xã cù lao và có cả phần tiền của nhân dân thị trấn Long Phú, nơi đang ở trong vùng kềm kẹp chiếm đóng của địch.
Trong thời điểm Đền thờ Bác Hồ xây dựng xong cũng là lúc Mỹ, Ngụy thay đổi chiến lược từ “chiến tranh cục bộ” sang “Việt Nam hóa chiến tranh”. Kế hoạch ban đầu của chúng là mở kế hoạch đặc biệt, bình định cấp tốc, mở rộng càn quét để lấn chiếm những vùng nông thôn là căn cứ cách mạng.
Sau khi thực hiện kế hoạch bước đầu ở các vùng Hồng Dân, Thạnh Trị, Châu Thành, Mỹ Xuyên,... bọn địch đã bỏ mũi dùi qua các vùng cù lao của Long Phú, trong đó, xã An Thạnh Nhì là nơi chúng tập trung chú ý nhất. Đầu tiên, chúng đưa quân càn quét vài ngày, sau đó chúng đưa quân đóng đồn ở Kinh Đình Trụ. Kế tiếp, chúng tiếp tục đóng quân ở các đồn Bến Bạ Nhỏ, Bà Kẹo, Rạch Kè, Rạch Ngây, Đường Xuồng, Đặng Trung Tiến,... và cuối cùng là đồn sông Lòng Đầm.
Lúc này, Đền thờ Bác Hồ bị chúng ép vào vị trí ở giữa đồn Rạch Chồn, cách Đền Thờ 800m và đồn Vàm Tắc, cách Đền thờ khoảng 1.800m. Và bấy giờ, nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn Đền thờ Bác là vô cùng quan trọng và rất khó khăn. Đúng như nhận định ban đầu của Huyện ủy: “Lập Đền thờ tuy khó, nhưng việc giữ gìn đền thờ Bác lại càng khó khăn hơn”.
Vào thời điểm đó, có tên Trung úy Nhàn, Trưởng đồn chỉ huy Trung đội Bảo An, là một tên ác ôn khét tiếng trong vùng. Nó đã nhiều lần dẫn lính đi càn quét, sục sạo, phá hoại các cơ sở cách mạng, đốt phá nhà cửa, cướp bóc của nhân dân trong xã, ấp. Một lần đi càn quét, nó kéo quân đến Đền thờ Bác Hồ, cả bọn hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao, ở vùng cù lao sông nước xa xôi này lại mọc lên một đền thờ Bác Hồ? Việt cộng chủ trương, tổ chức hay người dân tự lập nên? Dù ai chủ trương và lập nên đi nữa thì chúng cũng quyết tâm phá bỏ đến cùng!
Đầu tiên chúng càn quét, hạch sách bà con:
- Ai là người đầu đảng bày ra việc lập Đền thờ Ông Hồ?
Có lẽ chúng cũng kiêng sợ oai danh, đức độ của Bác Hồ nên chỉ gọi là “Ông Hồ” chứ không dám dùng từ xúc phạm nào khác.
Hôm đó, bà con trong ấp kéo lại khoảng mười mấy người, trong đó có Bà giáo Tiền (tức Tô Thị Tốt), bà Hai Lũy, Hai Kỳ cùng tham gia.
Một người đứng ra nói với chúng:
- Không ai cầm đầu cả! Đây là sự biết ơn của bà con đối với Cụ Hồ, vì Cụ đã đem cơm áo, ruộng đất cho nhân dân trong đánh Pháp năm xưa, nên hôm nay Cụ Hồ mất, nhân dân tự lập Đền thờ cúng.
Chúng tức tối, la hét và hỏi tiếp:
- Ai đứng ra xây cất?
Bà con đồng loạt trả lời:
- Dân trong ấp đồng lòng đứng ra xây cất.
Chúng lồng lộn, điên cuồng la hét, hăm dọa và nhào tới đánh đập bà con. Nhưng bà con không nao núng, cứ trước sau trả lời y như vậy.
Không đàn áp, hù dọa được, tên Trung úy Nhàn ra lệnh cho đám lính:
- Tụi mày đốt Đền thờ cho tao!
Bà con cương quyết ngăn cản với lý lẽ:
- Đền thờ ở đây sát bên nhà chúng tôi, các ông đốt rồi cháy lan đến nhà cửa chúng tôi thì sao?
Người khác thêm vào:
- Từ xưa đến nay, không có ông quan nào lại đi đốt đền, đốt miễu, nơi thờ cúng thần thánh cả!
Thêm một người khác bồi thêm:
- Chỉ có giặc giã mới làm như vậy thôi!
Tên ác ôn đuối lý, nó tức giận đỏ tía mặt mày, chửi đổng vài câu, nạt nộ bà con giải tán rồi ra lệnh cho bọn lính rút lui.
Lần sau, rồi thêm nhiều lần nữa! Không bọn lính của đồn này thì bọn lính của đồn khác đi càn quét ngang qua Đền thờ, bọn chúng đều hạch sách, quát nạt, dọa nạt, hăm he đốt phá Đền thờ, nhưng với sự mưu trí và lý lẽ đấu tranh sắc bén của bà con ấp Nguyễn Công Minh, đã kịp thời ngăn chặn được bàn tay phá hoại của kẻ thù,
Bà con còn khéo léo đưa tin để tác động tâm lý của bọn lính: Ông Cụ linh thiêng lắm! Có nhiều người chiêm bao thấy Ông Cụ về bảo: “Đứa nào dám đụng đến Đền thờ là chết chẳng toàn thây”. Cứ thế, tin đồn đó được lan truyền đến tai bọn lính. Và chúng cảm thấy sợ hãi oai linh của Bác, nên từ đó bớt hung hăng và ít có tên nào dám đụng đến Đền thờ.
Có người còn kể rằng: vào một buổi trưa, bọn lính đi càn quét ngang qua Đền thờ, chúng vào trong Đền để tránh nắng. Vào Đền, chúng chỉ ngồi một góc chứ không dám phá phách gì. Có một tên trong bọn ngắm nhìn bàn thờ Bác một lúc bất chợt đứng dậy đi về phía bàn thờ Bác và rút cây nhang ra đốt rồi cắm lên bàn thờ. Cả bọn nhìn theo. Lát sau, có vài tên cũng thắp hương trên bàn thờ Bác, miệng khấn vái lâm râm rồi sau đó cả bọn kéo đi.
Nhờ có kế hoạch đối phó với bọn địch trước khi xây dựng đền thờ, nhờ sự kiên trì, mưu trí, dũng cảm và lời lẽ có lý có tình của bà con trước quân giặc mà Đền thờ Bác Hồ được giữ gìn, bảo vệ đến ngày nước nhà độc lập. Trong thời gian đồn bót giặc kế bên, nhưng hương khói trong Đền không lúc nào ngưng. Mỗi sáng bà con đi làm đều ghé ngang, người cái bánh, người ít trái cây đem cúng rồi đốt nén nhang cắm lên bàn thờ Bác, buổi tối cũng có người lại đốt nhang, cán bộ, chiến sĩ đi công tác về đều ghé lại đốt nhang cho Bác,... Sau Hiệp định Paris năm 1973, bọn lính đi ngang Đền thờ cũng ghé đốt nhang cho Bác, bọn chúng luôn gọi Bác là Cụ Hồ, Ông Hồ, Ông Cụ chứ không dám dùng từ xúc phạm đến uy danh của Người.
Sau ngày 30/4/1975, Đền thờ Bác càng được Đảng bộ, chính quyền và bà con nhân dân huyện Long Phú nói chung và xã An Thạnh Đông nói riêng, tiếp tục quan tâm chăm sóc, giữ gìn và sửa chữa. Và một vinh dự to lớn đã đến với toàn Đảng, quân và dân nơi đây, vào ngày 28/12/2001 Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích Lưu niệm Danh nhân cấp Quốc gia. Hàng năm, huyện Cù Lao Dung đều tổ chức Lễ hội Đền thờ Bác Hồ với không khí trang trọng, phấn khởi và nhiều hoạt động phần hội rất phong phú hấp dẫn, thu hút hàng ngàn người tham gia như đêm văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao, các trò chơi dân gian, đặc biệt là Hội thi Mâm lễ vật dâng lên cúng Bác, thu hút nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh hăng hái tham gia.
Trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu, tôn tạo, đến năm 2010, UBND tỉnh Sóc Trăng quyết định đầu tư tôn tạo Đền thờ Bác Hồ với kinh phí trên 30 tỷ đồng, với các hạng mục như: nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, nhà hội, sân lễ, ao sen, tường rào, đường nội bộ, cây xanh.... trên diện tích rộng 2,2 hecta. Sau gần 03 năm thi công, Đền thờ Bác Hồ đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, đáp ứng lòng mong đợi và là niềm tự hào của nhân dân Sóc Trăng.
Vào ngày 02/6/2013, huyện Cù Lao Dung đã long trọng tổ chức lễ khánh thành Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự tham dự của lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ và hàng ngàn bà con trong tỉnh. Đặc biệt, một vinh dự nữa lại đến với Đảng bộ và nhân dân huyện Cù Lao Dung, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến tham dự buổi lễ và thăm viếng bà con nơi đây.
Đền thờ Bác Hồ là một địa chỉ đỏ, là nơi mà nhiều người dân địa phương, du khách trong và ngoài tỉnh, nhất là các tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh thường đến đây để viếng thăm, tham quan, thắp hương tưởng niệm để nhớ đến công ơn to lớn của vị cha già của dân tộc Việt Nam; đồng thời tìm hiểu truyền thống đấu tranh anh dũng và những chiến công hiển hách, vang dội của đoàn quân du kích Long Phú và nhân dân vùng sông nước cù lao trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như quá trình xây dựng, bảo vệ và giữ gìn Đền thờ Bác trong thời kỳ chiến tranh ác liệt trước đây.
Đền thờ Bác Hồ ở huyện Cù Lao Dung đã trở thành trung tâm giáo dục chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống đạo đức, văn hóa quý báu, mang tính nhân văn cao cả, tốt đẹp của dân tộc ta cho thế hệ trẻ và nhân dân trong và ngoài tỉnh. Đây cũng là điểm đến quan trọng cho du khách tham gia tour du lịch truyền thống về nguồn tại Cù Lao Dung./.
Tài liệu tham khảo:
[1] .Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Hậu Giang, của Ban Tuyên giáo huyện Long Phú xuất bản năm 1988.
[2]. Các tài liệu tại Đền thờ Bác Hồ.
[3]. Lời kể của các nhân chứng lịch sử.
Nguyễn Quốc Quân
Distance: 9.39 km
Distance: 9.42 km
Distance: 18.16 km
Distance: 18.45 km
Distance: 16.92 km
Distance: 0 m
Distance: 4.05 km
Distance: 8.15 km
Distance: 15.07 km
Distance: 16.71 km
Distance: 17.01 km